Thứ Ba, 12 tháng 6, 2012

Ôn tập HSRP part 1

I. Khái Niệm HSRP

Hot Standby Redundancy Protocol

Một network được cung cấp tính năng High Availability nghĩa là các cơ sở hạ tầng mạng hay các server quan trọng trong network đó luôn luôn ở trong trạng thái có thể được truy cập đến vào bất kỳ thời điểm nào. Hot Standby Routing Prototocol (HSRP) là một trong những số tính năng cung cấp khả năng Redundancy ở layer 3 cho các host trong network. HSRP sẽ tối ưu hóa việc cung cấp các đường kết nối khi phát hiện một đường link bị fail và những cơ chế phục hồi sau khi ta gặp sự cố trong mạng. Virtual Router Redundancy Protocol (VRRP) và Gateway Load Balancing Protocol (GLBP)cũng là những giao thức cung cấp khả năng Redundancy ở layer 3. VRRP là một giao thức standard. GLBP là giao thức của Cisco. Nó được cải tiến từ VRRP và cung cấp thêm tính năng cân bằng tải.
Trước tiên ta cần phải hiểu một số khái niệm có liên quan đến quá trình routing như sau
1.Sử dụng Default Gateway
- Một máy tính trong mạng để có thể đi đến các đường mạng khác nhau thì ta phải cấu hình default gateway. Giả sử PC trên sơ đồ cấu hình default gateway hướng đến Router A để chuyển tiếp gói tin đi đến file server A. Và Router B cũng đã được cấu hình định tuyến.
- Trong mô hình bên dưới Router A có chức năng routing các packet nó nhận được đến subnet A. Còn router B có chức năng routing đến subnet B. Nếu như Router A bị hỏng hóc không có còn sử dụng được nữa thì các cơ chế định tuyến động sẽ tính toán lại và quyết định Router B sẽ là thiết bị chuyển tiếp gói tin thay thế cho router A.
- Nhưng PC A thì không thể nào nhận biết được thông tin định tuyến này được. Ở các PC ta thường chỉ cấu hình duy nhất một default gateway IP và địa chỉ IP này sẽ không thay đổi khi mô hình mạng của ta thay đổi. Như vậy dẫn đến trường hợp là PC A không thể gửi traffic đi đến các host thuộc các đường mạng khác trong mô hình mạng.
- Nếu như một router nào đó dự phòng và hoạt động giống như default gateway cho segment đó thì ta không cần phải cấu hình lại địa chỉ IP default gatway cho các PC.
2. Proxy ARP
- Cisco IOS sử dụng proxy Arp để cho phép các host mà nó không có tính năng định tuyến có thể lấy được địa chỉ Mac address của gateway để có thể forward packet ra khỏi local subnet. Ví dụ như trong mô hình trên proxy ARP router nhận được một gói tin ARP request từ một host cho một địa chỉ IP. Địa chỉ IP này không có cùng nằm chung một segment so với host gửi gói tin request. Router sẽ gửi về một gói tin ARP với Mac address là của router và IP là địa chỉ mà máy cần đi đến. Như vậy host sẽ gửi toàn bộ tất cả các packet đến địa chỉ IP đã được phân giải thành Mac address của router. Sau đó router lại làm tiếp công việc đẩy gói tin này đi đến địa chỉ IP cần đến.
- Như vậy với tính năng proxy ARP các end-user station sẽ coi như là các destination device đã được kết nối đến chính phân đoạn mạng của nó. Nếu như router là chức năng proxy ARP bị fail thì các end station vẫn tiếp tục gửi packet đến IP đã được phân giải thành Mac address của fail router. Và các packet sẽ bị discard.
- Thực tế thì Proxy Mac address có thời gian sống nhất định trong bảng ARP cache của máy tính. Sau khoảng thời gian này thì workstation sẽ yêu cầu địa chỉ của một router khác. Nhưng nó không thể gửi traffic trong suốt khoảng thời gian này.  (sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét